Hỗ trợ đăng ký quốc tế sáng chế cho người nộp đơn cá nhân
Trong khuôn khổ Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016-2020, Cục Sở hữu trí tuệ đã…
Tổng giám đốc WIPO, Francis Gurry gần đây đã có cuộc gặp với WIPO Magazine để nói lên những suy nghĩ về tương lai khi những phát triển mang tính cách mạng trong lĩnh vực công nghệ thông tin và khoa học đời sống bắt đầu thử thách đến lý thuyết và và thực tiễn của hệ thống Sở hữu trí tuệ.
Trong tương lai, dường như không thể tránh khỏi rằng công nghệ sẽ ngày càng ảnh hướng đến định hướng của kiến trúc quốc tế vàcách thức quản trị nó.
Ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự phát triển của công nghệ sẽ có tác động triệt để đến bức tranh Sở hữu trí tuệ (SHTT). Mặc dù chúng ta chưa hiểu được đầy đủ chiều sâu của nó, chúng ta có thể dự đoán những thách thức lớn đối với quản trị, chính sách và quản lý SHTT.
Chúng ta cũng có thể dự đoán những thách thức phát triển đáng kể phát sinh từ những khác biệt lớn về năng lực công nghệ hiện có trên toàn thế giới. Nhưng mọi thử thách đều có những cơ hội. Sự phát triển đang tạo ra những thách thức này không phải là tiêu cực. Chúng ta đơn giản chỉ cần cố gắng tìm hiểu những thử thách đó sẽ tác động như thế nào đến hệ thống SHTT hiện tại và sự tiến triển trong tương lai của nó.
Điều này có liên quan đến sự tăng lên của nhu cầu toàn cầu đối với quyền SHTT. Khi SHTT trở nên quan trọng hơn đối với kiến thức kinh tế, nhu cầu về quyền SHTT tiếp tục tăng lên và điều này gần như tiếp tục tăng. Ví dụ: năm 2015, 2.9 triệu đơn sáng chế được nộp cùng với khoảng 6 triệu đơn nhãn hiệu và 870.000 đơn kiểu dáng. Đây là những con số phi thường. Quản lý nhu cầu gia tăng này là một thách thức lớn đối với các cơ quan SHTT. Tuy nhiên, khi các giải pháp CNTT mới được đưa ra, sẽ có những cơ hội mới để quản lý tốt hơn nhu cầu này và các quy trình về quản trị hành chính nói chung.
Hệ thống SHTT hiện tại phù hợp với nhiều mục đích, nhưng có thể có những lĩnh vực mà nó cần phải thích ứng. Trí tuệ nhân tạo (AI) và khoa học đời sống với đặc tích đa chiều của nó là hai lĩnh vực chính của phát triển khoa học và công nghệ sẽ gây ra những thách thức quan trọng đối với SHTT cũng như các lĩnh vực chính sách khác.
AI, ví dụ, gây ra các vấn đề liên quan đến công nghệ và kinh tế, từ việc khuyến khích sản xuất các hệ thống AI hữu ích đến việc giải quyết việc làm. Và chắc chắn là các vấn đề đạo đức và quản trị sẽ phát sinh từ việc áp dụng CNTT trong các ngành khoa học đời sống. Vì vậy, chúng ta cần phải suy nghĩ cẩn thận về việc các công nghệ đang phát triển nhanh chóng sẽ có ý nghĩa thế nào đối với hệ thống SHTT và việc quản trị nó.
Những thách thức về chính sách là kết quả của cả quá trình toàn cầu hóa và tốc độ thay đổi công nghệ. Cùng với nhau, các yếu tố này đang thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng, sự tiếp nhận và sử dụng các công nghệ mới trên khắp thế giới trong một quá trình đột phá triệt để và liên tục. Phát triển nhanh chóng là một cơ hội để đảm bảo rằng tất cả các nước đều được hưởng lợi từ việc phổ biển và sự dụng các công nghệ này.
Trong lĩnh vực chính sách, những phát triển này đã tạo ra những cơ hợi thực tiễn chưa từng có cho vấn đề hợp tác, ví dụ thông qua việc thành lập các nền tảng đa bên và các đối tác khác. Những cơ hội như vậy sẽ ngày càng nhiều. Tuy nhiên quá trình soạn thảo chính sách có thể trở nên khó khăn hơn bởi vì hệ thống quốc tế hiện tại không được thiết kế đối phó với sự thay đổi nhanh chóng và các vấn đề cốt lõi mà chúng ta phải đối mặt
Có một cách có thể đối với cộng đồng quốc tế là tạo ra một không gian cho việc tham gia phản ánh mà không có rủi ro, ở đó các quốc gia có thể tham gia một cách tự do trong các cuộc thảo luận không ràng buộc. Điều này sẽ tạo ra cơ hội cho sự hiểu biết thường xuyên hơn trên toàn thế giới về nội hàm của những tiến bộ khoa học và công nghệ này đối với việc thiết lập SHTT.
Để đạt được sự hiểu biết như vậy, chúng ta cần mở ra không gian này cho những người sản xuất ra các công nghệ – doanh nghiệp và các nhà sáng tạo – nhờ đó các thảo luận được thông báo và có liên quan. Sự tham gia của nhiều bên liên quan là cần thiết, cả để làm rõ vai trò của hệ thống SHTT hiện có và xác định các ưu đãi kinh tế cần thiết để khuyến khích và duy trì sự phát triển công nghệ này.
“Nhiều vấn đề chúng ta phải đối mặt là đa chiều về bản chất, và cùng nhau chúng tạo ra một thách thức lớn trong vấn đề quản trị”, ông Gurry ghi nhận.
Cách tiếp cận này đưa ra một phạm vi rộng lớn để cải thiện kiến trúc hiện có của hệ thống quốc tế, tăng cường hợp tác toàn cầu và hỗ trợ việc xây dựng chính sách về SHTT hiệu quả hơn.
Đây là một thách thức đang nảy sinh lên liên quan đến nguyên tắc cơ bản của sự minh bạch mà theo đó hệ thống SHTT hiện có được xây dựng. Hãy để tôi giải thích. Bất cứ ai cũng có thể tìm kiếm bằng sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp hoặc quyền SHTT khác miễn là đáp ứng các điều kiện nhất định. Một trong những điều kiện này liên quan đến công khai bộc lộ một số thông tin nhất định về công nghệ, sản phẩm hoặc dịch vụ mới. Điều này làm cho người khác có thể tìm ra ai sở hữu công nghệ, sản phẩm hoặc dịch vụ và phạm vi quyền liên quan.
Mục đích của việc này là tạo thuận lợi cho việc trao đổi và sử dụng hiệu quả các quyền này nhằm hỗ trợ phát triển công nghệ, tăng trưởng kinh doanh và tiến bộ xã hội. Tính minh bạch luôn là nền tảng của hệ thống SHTT. Tuy nhiên xu hướng tư nhân hóa các chức năng truyền thống của khu vực công và sự xuất hiện của các công nghệ mới như liên kết khối (chuỗi khối), nói chung, cung cấp một phương tiện lưu giữ an toàn, có thể sẽ làm mờ đi những ranh giới giữa các lĩnh vực công và tư nhân.
Một chức năng truyền thống của văn phòng SHTT là duy trì hồ sơ công khai về quyền sở hữu liên quan đến kiến thức, công nghệ và các tác phẩm văn hóa. Ví dụ, trong khi công nghệ chuỗi khối có thể làm tăng hiệu quả và an ninh của hệ thống, nó sẽ làm như vậy bằng công nghệ riêng chứ không khải là đăng ký công cộng. Rất nhiều thử nghiệm đang diễn ra với chuỗi khối trong lĩnh vực bản quyền, và người ta có thể dễ dàng đoán trước được ứng dụng của nó trong tất cả các lĩnh vực cấp phép SHTT.
Chúng ta cần phải biết rằng với công nghệ chuỗi khối, khu vực tư nhân có thể trở thành một người giữ kỷ lục phụ. Và chúng ta cần phải xem xét những tác động nào sẽ có đối với sự minh bạch của thị trường đối với hàng hóa tri thức. Liệu việc sử dụng các công nghệ này sẽ làm tăng hiệu quả của thị trường đó? Nó sẽ cải tiến hệ thống quản lý quyền SHTT? Nó chắc chắn có tiềm năng rất lớn để diễn ra như vậy.
Ngày nay, khi dữ liệu lớn (big data) thu hút sự chú ý và chúng tôi hướng tới Vạn vật kết nối (mạng lưới vạn vật kết nối Internet), một lượng lớn dữ liệu đang được tạo ra. Phần lớn nó nằm ngoài các loại hình truyền thống của hệ thống SHTT. Đây là một trong những lý do tại sao các nhà nghiên cứu ngày càng có xu hướng chuyển sang bí mật thương mại để bảo vệ các công trình nghiên cứu tại phòng thí nghiệm giai đoạn tiền thương mại.
Chúng tôi cũng thấy rằng các nền tảng trực tuyến lớn như Facebook và YouTube đang tạo ra một lượng lớn dữ liệu có giá trị từ các hoạt động của họ. Điều này mang lại cho họ, và thực sự là cho tất cả những ai giữ kho dữ liệu như vậy, một cơ hội kinh tế rõ ràng. Tuy nhiên, có nhiều câu hỏi phức tạp xuất hiện trước tiên về quyền sở hữu (theo nghĩa truyền thống) của những dữ liệu đó. Những câu hỏi này cũng liên quan đến vấn đề riêng tư và bảo mật. Ví dụ: ai sở hữu dữ liệu của một người hoặc dữ liệu được tạo ra bởi sự tồn tại của một người? Chúng ta có cần phải xác định lại quyền sở hữu liên quan đến những dữ liệu này và các quyền và nghĩa vụ gắn liền với chúng?
Mặc dù việc xác định lại quyền sở hữu liên quan đến các loại dữ liệu nằm ngoài danh mục SHTT cổ điển dường như không thể tránh khỏi, bất kỳ việc phân loại lại các quyền sở hữu hiện tại sẽ phụ thuộc vào những gì mà các nhà hoạch định chính sách muốn đạt được. Ví dụ, nếu mục tiêu là khuyến khích việc thu thập và khai thác dữ liệu để nâng cao hiểu biết về sức khoẻ con người, các nhà hoạch định chính sách sẽ cần cân nhắc một loạt các câu hỏi:
Luật về bảo hộ bí mật thương mại đã bao hàm một số vấn đề trong những câu hỏi này, nhưng chúng ta thực sự cần phải suy nghĩ việc phát triển xung quanh những vấn đề đang nảy sinh này.
Có những bất cân xứng lớn trên thế giới. Một mặt, các nền kinh tế tiên tiến đang đầu tư hàng nghìn tỷ USD vào R&D, và mặt khác, các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình và các nền kinh tế đang chuyển đổi đang phải đối mặt với vô số nhu cầu trước mắt với nguồn lực rất hạn chế. Đồng thời, các công nghệ mới đang được phát triển và phổ biến trên toàn cầu với tốc độ nhanh chưa từng có. Thách thức lớn nhất là đảm bảo rằng tất cả các nước đều được hưởng lợi từ sự phổ biến nhanh chóng của các công nghệ này và sự khác biệt lớn về năng lực công nghệ không ngày càng trầm trọng thêm. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, đòi hỏi sự quan tâm thích đáng.
Nhiều vấn đề chúng ta phải đối mặt có tính chất đa chiều, và cùng nhau tạo ra một thách thức lớn về quản trị. Các công nghệ đang tạo ra sự thay đổi chấn động này liên quan đến nhiều vấn đề – chúng liên quan đến SHTT, đạo đức, bảo mật, an ninh, an toàn sinh học … nhưng kiến trúc hiện có của các tổ chức quốc tế không được thiết kế để xử lý các câu hỏi đa chiều mà chúng ta phải đối mặt.
Các tổ chức hiện đang có xu hướng chuyên về các vấn đề đơn lẻ, chẳng hạn như y tế, SHTT, lao động hoặc thương mại. Và các cuộc thảo luận chính sách thường chỉ trong phạm vi một quốc gia. Các vấn đề có thể xảy ra trong phạm phi quốc gia, nhưng chúng thường thu được lợi ích từ việc được thảo luận rộng hơn ở cấp độ song phương hoặc đa phương hoặc trong các nhóm khu vực chia sẻ lợi ích chung. Và, ở mức độ rộng rãi nhất, chúng có thể được thảo luận ở cấp độ quốc tế.
Trong tương lai, dường như không thể tránh khỏi rằng công nghệ sẽ có vai trò ngày càng lớn trong việc quy định ra hình dạng của kiến trúc quốc tế và việc quản trị nó. Mặc dù chúng ta có thể dự đoán rằng bất kỳ thay đổi nào trong việc thiết kế các hệ thống quản trị sẽ được thấm nhuần với các giá trị chia sẻ phổ biến, sự cân bằng và cơ hội, chúng ta cần phải làm thế nào để phản ánh trung thực cách cộng đồng quốc tế có thể phản ứng hiệu quả với những sự phát triển nhanh chóng và đầy tiềm năng này. Một thế giới hoàn toàn mới đang phát triển và chúng ta có thể mong đợi một cuộc chơi hoàn toàn khác.
Đó là một câu hỏi hay. Có thể là cần có một tổ chức mới để giải quyết các vấn đề này hoặc có thể chúng ta cần tăng cường hợp tác giữa các tổ chức hiện có. Các tổ chức mới chỉ nên được tạo ra khi có nhu cầu không được đáp ứng. Vì vậy, có thể tính đến khả năng có một cuộc thảo luận thích hợp về những vấn đề này.
Trong những năm gần đây, chúng ta đã thấy mức độ tham gia của công chúng rất lớn, phần lớn nhờ vào Internet, điều này đã giúp người dùng liên hệ trực tiếp với các vấn đề về sở hữu trí tuệ. Xu hướng này có thể sẽ vẫn tiếp tục.
Tuy nhiên, có xu hướng cho SHTT trở thành chiến trường cho các vấn đề khác. Một ví dụ là những tranh cãi xung quanh việc cấp bằng sáng chế của Oncomouse của Đại học Harvard năm 1988. Mọi người chắc chắn tập trung vào câu hỏi về quyền vì việc công bố đơn sáng chế nói chung là việc bộc lộ đầu tiên của một công nghệ mới. Nhưng trên thực tế, vấn đề cơ bản hơn đặt ra là liệu có thể chấp nhận hoặc mong muốn các nhà nghiên cứu có thể điều khiển được các sinh vật sống cao hơn hay không.
Ngày nay, chúng ta thấy một kịch bản tương tự đang diễn ra liên quan đến việc áp dụng công nghệ chỉnh sửa gen CRISPR-Cas9, công nghệ đã làm tăng khả năng vận dụng tất cả các sinh vật và có ý nghĩa to lớn đối với công nghệ sinh học về sức khoẻ, nông nghiệp và công nghiệp.
Nói chung có. Nguy cơ cao nhưng đáng giá. Chúng ta cần phải trau dồi kỹ thuật quản trị rủi ro.
Thông tin về bằng sáng chế“Oncomouse” (chuột biến đổi gen)
Năm 1988, Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) đã cấp bằng sáng chế đầu tiên trên thế giới về một dạng sự sống cao hơn (bằng sáng chế số 4.736.866). Được phát triển bởi các nhà nghiên cứu tại Trường Y Harvard, bằng sáng chế “Oncomouse” cho rằng “một động vật có vú biến đổi gen có chứa tế bào mầm và tế bào soma chứa chuỗi oncogene đang hoạt động tái tổ hợp được đưa vào động vật có vú đó”.
Sáng chế này được coi là một phát triển quan trọng trong việc tìm hiểu về ung thư và phát triển các phương pháp điều trị hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nó cũng gây ra những mối quan tâm về đạo đức sâu sắc đã gây ra cuộc tranh luận về chính sách căng thẳng về sự cần thiết phải cấp bằng sáng chế cho các dạng sự sống cao hơn ở Hoa Kỳ và nhiều cơ quan có thẩm quyền khác.
Nguồn: WIPO
Trong khuôn khổ Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016-2020, Cục Sở hữu trí tuệ đã…
Thông tư số 06/2019/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước…
Thông tư 02/2019/TT-BVHTTDL quy định về giám định tư pháp đối với quyền tác giả, quyền liên quan. Ngày 05/7/2019,…
Lần đầu tiên, các nhà sáng chế tại Châu Á nộp hơn một nửa số đơn sáng chế quốc tế…
Ngày 12/11/2018, Quốc hội Khóa 14, Kỳ họp thứ 6 đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP theo Nghị quyết số…
Tính đến hết ngày 30/11, Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) đã tiếp nhận 98.347 đơn các loại (tăng 5,5%…
Ngày 08/06/2016, Liên Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư liên…
Theo Nghị định này, mức thu lệ phí môn bài đối với tổ chức sản xuất, kinh doanh chỉ còn…
Thông tư 83/2016/TT-BTC ngày 17/6/2016 hướng dẫn thực hiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu,…
Ngày 14/11/2016 Bộ tài chính đã ban hành Thông tư số 263/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp,…